Đọc thêm: Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (trích - Những năm tháng không thể nào quên - Võ Nguyên Giáp)

I. Tiểu dẫn

- Đại Tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại Lộc Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình.

- Ông bắt đầu hoạt động cách mạng từ năm 1925.

- Là nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nguyên là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từ năm 1946 – 1980, Phó Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1978 – 1992.

- Các tác phẩm hồi kí Những năm tháng không thể nào quên (1970), Chiến đấu trong vòng vây (1978), Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử (1994).

- Đoạn trích thuộc chương XII của tập hồi kí Những năm tháng không thể nào quên (nhà văn Hữu Mai ghi lại).

II. Văn bản (SGK)

1. Bố cục của phần trích gồm 4 đoạn

- Đoạn 1: Từ đầu đến “ập vào miền Bắc", từ thế đứng hiên ngang của dân tộc thời chống Mỹ, tác giả hồi tưởng về giờ phút hiểm nghèo của đất nước Việt Nam mới.

- Đoạn 2: Tiếp theo đến "thêm trầm trọng", những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mọi bề của đất nước, tưởng chừng không thể vượt qua.

- Đoạn 3: Tiếp theo đến “ba trăm bảy mươi kilôgam vàng", những biện pháp tích cực của chính quyền mới và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách của Đảng và của toàn dân.

- Đoạn 4: Phần còn lại, hình ảnh Bác Hồ biểu tượng cho một chính thể mới, Nhà nước mới. Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

2. Hồi tưởng về những ngày đầu của nước Việt Nam mới

- Trong bối cảnh đất nước năm 1970, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra gay go, ác liệt.

- So với hai mươi lăm năm trước đây tuy khó khăn nhưng thế và lực của chúng ta đã khác.

+ Năm 1945 là “thời kì làm mưa, làm gió của chủ nghĩa đế quốc", “gần hai chục vạn quân Tưởng từ mấy ngả ập vào miền Bắc" còn bây giờ (1970), “mỗi hành động kẻ cướp... không tránh khỏi bị trừng phạt", mọi cách tô son trát phấn của đế quốc Mỹ với bọn nguỵ quyền tay sai ở miền Nam đều hoài công vô ích".

 + Năm 1945, nước Việt Nam chưa có tên trên bản đồ thế giới, cả Đông Dương khi đó mang tên Indo-China (vùng giáp giới Ấn Độ - Trung Quốc) thuộc Pháp. Còn bây giờ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã là một đất nước tự do.

3. Phần trích đã nêu rõ những khó khăn nguy nan của nước Việt Nam mới

- Nước Việt Nam mới khai sinh đã phải đương đầu với bao khó khăn, nguy nan “nằm giữa bốn bề hùm sói, phải tự dốc mình đấu tranh dũng cảm, mưu trí phải tìm mọi cách để sống còn”.

- Đảng phải hoạt động bí mật, các đảng viên đều công tác dưới danh nghĩa những cán bộ Việt Minh. Chính quyền cách mạng mới “chưa được nước nào công nhận”.

- Kinh tế khó khăn, ruộng đất vẫn trong tay địa chủ, bão lụt, hạn hán liên miên, buôn bán với nước ngoài trì trệ, hàng hóa khan hiếm, ngân khố chỉ còn một triệu bạc rách. Nạn thất nghiệp tăng, nạn đói, dịch tả sản sinh trở lại. Đúng là tình thế “ngàn cân treo sợi tóc", đúng lúc ấy tiếng súng xâm  lược của bọn Pháp đã vang lên ở Nam bộ làm cho khó khăn "càng thêm trầm trọng”.

Đây là những thách thức quá lớn đối với chính quyền cách mạng đang còn rất non trẻ.

4. Quyết sách đứng đắn sáng suốt của Đảng và Chính phủ

- Củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, giải tán chính quyền cũ (chính quyền thực dân phong kiến), xây dựng bộ máy chính quyền mới từ chính quyền cơ sở đến Trung ương, toàn dân đóng góp ý kiến cho dự án chống Pháp.

- Thi hành một số chính sách mới, địa chủ phải giảm tô 25%, xóa nợ cho nông dân, toàn dân tăng cường học chữ quốc ngữ, học tập thi cử đều miễn phí, động viên tinh thần đóng góp trong nhân dân, lập quỹ độc lập, kêu gọi đồng bào hưởng ứng “tuần lễ vàng".

5. Hình tượng tiêu biểu, gây ấn tượng sâu sắc nhất

- Bác Hồ là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Chính phủ, người cầm lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió lớn. Nét đẹp ngời sáng và cao cả của Bác là sự toàn tâm toàn ý vì dân, vì nước “ở Người, mọi vấn đề, mọi chuyện của Đảng, của nước, của dân đều trở thành những rung động sâu xa trong tình cảm". Để chính quyền mới có thể tồn tại và lớn mạnh, Bác chủ trương xây dựng “quan hệ giữa những người làm việc trong bộ máy chính quyền mới với nhân dân". Bác đề ra ba mục tiêu quan trọng “diệt giặc đói, giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm", muốn thế phải dựa vào lực lượng và tinh thần của dân.

- Chính quyền mới phải làm tất cả mọi việc “để mưu cầu hạnh phúc cho dân". Theo Bác “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập không có nghĩa lí gì". Tác giả khái quát “Hạnh phúc cho dân đó là mục đích của việc giành lấy chính quyền và giữ vững chính quyền ấy. Đó là lí tưởng của Người, là tấm lòng của Người". Bác đưa ra chủ trương kiên quyết chống lại những biểu hiện tiêu cực, khuyết điểm của những người làm việc tại các cơ quan. Bác viết bài tự phê bình cho đăng trên các báo, vạch ra “cái tệ tham ô nhũng lạm" và nói thành thật: “ những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là một tội lỗi chúng tôi". Vì thế “Đồng bào ta đã nhận thấy ở Bác Hồ, hình tượng tượng trưng cao đẹp nhất của dân, của nước, của cách mạng...".

6. Nghệ thuật viết hồi kí của tác giả

- Thể loại hồi kí thường mang đậm dấu ấn cá nhân, từ điểm nhìn của một con người cụ thể, tác giả kể lại những gì xảy ra với mình hoặc những gì chứng kiến mang tính chủ quan.

- Trong tác phẩm, tác giả trần thuật mọi sự kiện từ điểm nhìn của một người đại diện cho Đảng và Chính phủ, do đó các sự kiện được kể lại mang tính chất toàn cảnh, tổng thể, phác họa những nét lớn, gây ấn tượng sâu sắc với nhiều người, tiêu biểu cho cảm nghĩ chung của những người lãnh đạo Đảng và Chính phủ: “Trong tình hình kinh tế tài chính khó khăn, Chính Phủ làm thế nào để có tiền giải quyết các khoản chi phí cần thiết, nhất là những chi phí to lớn về quốc phòng". Ngoài ra, còn tiêu biểu cho cảm nghĩ của nhân dân “Người dân lao động bình thường đã nhận thấy nhà nước hôm nay đúng là nhà nước của mình".

- Cách trần thuật đã làm cho tác phẩm không phải là sách tự thuật về một cuộc đời mà trở thành biên niên sử của một dân tộc. Thể hồi kí đã có một diện mạo mới, một tầm vóc mới.