Câu 1. Trình bày tình hình phát triển kinh tế của Nhật Bản từ 1952 – 1973. Những nhân tố góp phần thúc đẩy nền kinh tế Nhật phát triển "thần kì".
a. Những nét chính về sự phát triển kinh tế
- Sau khi được phục hồi, từ 1952 – 1960, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển nhanh, nhất là từ năm 1960 đến 1973, thường được gọi là giai đoạn phát triển “thần kỳ”.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Nhật Bản từ 1960 - 1969 là 10,8%; từ năm 1970 đến 1973, tuy có giảm nhưng vẫn đạt bình quân 7,8%, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển khác.
- Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vượt Anh, Pháp, Cộng hoà Liên Bang Đức, Italia và Canada, vươn lên đứng hàng thứ hai thế giới tư bản (sau Mĩ).
- Từ những năm 70 trở đị, Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mỹ và Tây Âu).
b. Nhân tố thúc đẩy
- Ở Nhật Bản, nhân tố con người được coi là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu.
- Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước.
- Các công ty Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lý tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao.
- Nhật Bản biết áp dụng các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng.
- Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản thấp (không vượt quá 1% GDP), nên có điều kiện tận dụng vốn đầu tư cho kinh tế.
- Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển, như nguồn viện trợ của Mĩ, các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950 – 1953), Việt Nam (1954 – 1975) để làm giàu...
c. Nguyên nhân quan trọng nhất
Nhân tố con người được coi là vốn quí nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu cho sự phát triển kinh tế ở Nhật.
d. Hạn chế
- Nghèo tài nguyên nguồn nguyên, nhiên liệu phụ thuộc bên ngoài.
- Cơ cấu vùng kinh tế thiếu cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp.
- Sự cạnh tranh quyết liêt của Mĩ, Tây Âu, các nước Nic, Trung Quốc...
Câu 2. Nhận xét về chính sách đối ngoại của Nhật Bản
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản biến chuyển theo tiềm lực kinh tế Nhật Bản
- Giai đoạn 1 (1945 – 1952)
* Kinh tế: Nhật Bản trong thời kì khôi phục kinh tế, đến năm 1951 Nhật Bản đã đạt mức trước chiến tranh.
* Chính sách đối ngoại: Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ, năm 1951 Nhật kí với Mĩ Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật.
- Giai đoạn 2 (1952 – 1973)
* Kinh tế: có bước phát triển nhanh nhất từ năm 1960 đến năm 1973 thường được gọi là giai đoạn phát triển thần kì. Kinh tế Nhật đã vượt lên đứng thứ hai sau Mĩ trong thế giới tư bản.
* Chính sách đối ngoại: Nhật vẫn liên minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật được kéo dài vĩnh viễn. Tuy vậy, phong trào đấu tranh nhân dân Nhật Bản chống Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật, chống chiến tranh Việt Nam cũng diễn ra mạnh mẽ.
- Giai đoạn 3 (1973 – 1991)
* Kinh tế: sự phát triển kinh tế xen lẫn suy thoái. Tuy nhiên, từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản đã vươn lên thành siêu cường tài chính số một thế giới.
* Chính sách đối ngoại: với tiềm lực kinh tế ngày càng lớn mạnh, Nhật Bản bắt đầu đưa ra chính sách đối ngoại mới (thể hiện trong học thuyết Phucưđa năm 1977 và học thuyết Kaiphu năm 1991) tăng cường mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á.
- Giai đoạn 4 (1991 – 2000)
* Kinh tế: tuy lâm vào tình trạng suy thoái, nhưng Nhật vẫn là một trong 3 trung tâm kinh tế - tài chính lớn thế giới.
* Chính sách đối ngoại: Nhật Bản tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ. Tuy nhiên, coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng hoạt động đối ngoại ra phạm vi toàn cầu.
Câu 3. Sau khi được phục hồi, từ năm 1952 đến năm 1962, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển như thế nào?
Sau
khi được phục hồi, từ năm 1952 đến năm 1962, kinh tế Nhật Bản có bước
phát triển nhanh, nhất là từ năm 1960 đến năm 1973, thường được gọi là
giai đoạn phát triển “thần kì”.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Nhật Bản từ năm 1960 đến năm 1969 là 10,8%; từ năm 1970 đến năm 1973, tuy có giảm đi nhưng vẫn đạt bình quân 7,8%, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển khác. Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vượt Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia và Canada; vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư sản (sau Mĩ).
Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế-tài chính lớn nhất của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu).
Nhật Bản rất coi trọng giáo dục và khoa học-kĩ thuật, luôn tìm cách đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế. Tính đến năm 1968, Nhật Bản đã mua bằng phát minh của nước ngoài trị giá 6 tỉ USD. Khoa học-kĩ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn.
Ngoài các sản phẩm dân dụng nổi tiếng thế giới (như tivi, tủ lạnh, ôtô v.v.., Nhật Bản còn đóng tàu chở dầu có trọng tải 1 triệu tấn; xây dựng các công trình thế kỉ như đường ngầm dưới biển dài 53,8 km nối hai đảo Hônsu và Hốccaiđô, cầu đường bộ dài 9,4 km nối hai đảo Hônsu và Sicôcư.
Cầu Sê tô Ô hasi nối hai đảo Hônsu và Sicôcư
Nhật Bản nhanh chóng vươn lên thành một siêu cường kinh tế (sau Mĩ) là do một số yếu tố sau:
1. Ở Nhật Bản, con người được coi là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu;
2. Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước;
3. Các công ty Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao;
4. Nhật Bản biết áp dụng các thành tựu khoa học-kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm;
5. Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản thấp (không vượt quá 1% GDP), nên có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho kinh tế;
6. Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển, như nguồn viện trợ Mĩ, các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950-1953) và Việt Nam (1954-1975) để làm giàu v.v..
Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn có những hạn chế và hặp phải nhiều khó khăn:
1. Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu từ bên ngoài;
2. Cơ cấu cùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng có sự mất cân đối;
3. Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới, Trung Quốc v.v..
Về chính trị, từ năm 1955 đến năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền ở Nhật Bản. Dưới thời Thủ tướng Ikêda Hayato (1960-1964). Nhật Bản chủ trương xây dựng "Nhà nước phúc lợi chung", tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong vòng 10 năm (1960-1970).
Nền tảng căn bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản vẫn là lien minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật (kí năm 1951) có giá trị trong 10 năm, sau đó được kéo dài vĩnh viễn. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản chống Hiệp ước an ninh Mĩ-Nhật, chống chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam, cũng như các cuộc đấu tranh theo mùa (mùa xuân và mùa thu) kể từ năm 1954 trở đi đòi tăng lương, cải thiện đời sống luôn diễn ra mạnh mẽ.
Năm 1956, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Cùng năm đó, Nhật Bản là thành viên của Liên hợp quốc.